Robert-le-Diable Bresson: chất vấn quỷ

“Việc đặt câu hỏi còn quan trọng hơn việc tìm kiếm lời giải đáp.”
Alphaville, Jean-Luc Godard

Sẽ thật khó để viết (thêm) một thứ gì sâu về Robert Bresson, vì có lẽ chẳng có ai trong lịch sử điện ảnh suốt đời chỉ lặng lẽ làm (không nhiều) phim nhưng lại nhận được vô vàn sự chú ý của giới phê bình, nghiên cứu như Bresson (tôi có thể kể thêm một cái tên: Jacques Tati; nhưng người ta có nói nhiều về Tati đến vậy? so với Andrei Tarkovsky hay Ingmar Bergman thì chắc là không); ngay kể cả trong trường hợp Le diable probablement (Quỷ dữ, hẳn vậy) – tác phẩm khó có thể nói là nổi tiếng nhất của Bresson, nhưng nó rơi đúng vào phạm vi những bộ phim của những ông già: những tác phẩm điện ảnh trút bỏ tất cả nét hào nhoáng và chỉ còn trần trụi một bản thể cằn cỗi mà sáng suốt và trải sự đời, một sự trần trụi đến hoàn mỹ, không hề có ý đậy che hay hổ thẹn, mà chỉ có những John Ford (7 Women), Ozu Yasujiro (An Autumn Afternoon), Naruse Mikio (Scattered Clouds), Mizoguchi Kenji (Street of Shame) hay Charlie Chaplin (A Countess from Hong Kong) mới có thể đạt đến được.

Le diable probablement, đạo diễn Robert Bresson
Tiếp tục đọc “Robert-le-Diable Bresson: chất vấn quỷ”

Năm ngoái ở Transylvania

Đã một năm rồi từ ngày tâm trí tôi rơi vào một mớ bùng nhùng của những nuối tiếc, nghi kị, dằn vặt, khổ đau vì mất đi người con gái quý giá nhất của cuộc đời mình, hệt anh nhân vật chính trong Je t’aime, je t’aime của Alain Resnais. Như thể có một cỗ máy thời gian còn đang trong giai đoạn thử nghiệm đưa tôi ngược dòng ký ức, tôi trôi nổi giữa quá khứ và hiện tại, giữa những mất và còn, giữa hư vô và đời thực, để rồi không thể thoát ra được nữa. Những ký ức ấy có thực hay không, chính tôi cũng chẳng biết: trí óc là vậy, nó tự lấp đầy những khoảng trống trong trí nhớ con người, nhào nặn lên những hình hài mà nó, hay con người đó muốn, hoặc không muốn tạo nên.

“Où êtes-vous… mon amour perdu…”
(“Em đâu rồi… tình yêu đã mất/lạc lối của tôi…”)
L’année dernière à Marienbad

L’année dernière à Marienbad, đạo diễn Alain Resnais
Tiếp tục đọc “Năm ngoái ở Transylvania”

Ghi chép về ‘My Darling Clementine’

For my darling Clementine

Nếu có một bộ phim phản chiến vĩ đại mà không trực tiếp nói đến chiến tranh, không có những hình ảnh bom đạn khốc liệt, những cái chết thương tâm, đó hẳn phải là My Darling Clementine, một vực thẳm nối giữa They Were ExpendableThe Fugitive sau những trải nghiệm trong Hải Quân Hoa Kỳ của chính đạo diễn John Ford. Chỉ một con người vừa mới bước ra khỏi một cuộc chiến phi nghĩa, với một sự nhạy cảm tột cùng (ta còn nhớ trước khi lên đường sang bên kia Đại Tây Dương, Ford đã cho thấy sự vô định nhường nào trong How Green Was My Valley), mới có thể kể lại những khốc liệt và phi lý của chiến tranh chân thực, day dứt mà vẫn ngập tràn hy vọng đến vậy, trong bộ ba phim đứng hàng kiệt tác, đánh dấu thời kỳ chuyển giao giữa một Fordian Ford và một Brechtian Ford (“Brechtian hơn cả Brecht”) như Jean-Marie Straub ngợi ca.

Henry Fonda trong My Darling Clementine. Ảnh: 20th Century Fox
Tiếp tục đọc “Ghi chép về ‘My Darling Clementine’”

La Krutenau

“Wasn’t I lucky to be born in my favorite city?”
– Tootie, Meet Me in St. Louis


Khu phố Bourse – Esplanade – Krutenau của Strasbourg trong cảm tưởng của tôi là cả một châu Âu thu nhỏ. Rất nhiều những con phố hay quảng trường ở đây được đặt theo tên những thành phố nổi tiếng của Lục địa già: rue de Stuttgart, rue d’Istanbul, rue d’Ankara, place d’Athènes, rue d’Oslo, rue de Stockholm, rue de Genève, rue de Berne, rue de Lausanne, rue de Lucerne, rue/place de Zurich, rue de Milan, rue de Rome, v.v… Gắn với đó đôi khi là những bến dừng xe buýt mang độc cái tên của các thành phố ấy: Ankara, Zurich, Rome, hay đặc biệt là Palerme – nơi tôi vẫn thường khởi hành những cuộc lang thang không đích đến của mình – khiến người ta dễ có cảm giác như chỉ cần bước xuống xe buýt hoặc tram là đã đặt chân đến Đức, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp hay Thụy Sĩ. Tất nhiên không chỉ có tên các thành phố: quai des Alpes, route du Rhin hay quartier Danube là những ví dụ điển hình của việc núi và sông ở Tây (và Đông) Âu cũng có thể trở thành những địa danh ở nơi đây. Strasbourg không phải thành phố duy nhất làm điều này, nhưng trong một khu vực địa lý không quá lớn, những cái tên ấy vẫn xuất hiện một cách dày đặc, thậm chí nối liền nhau dọc các trục đường; rõ ràng đó không phải một sự ngẫu nhiên. Phải chăng, ngoài một vài đặc quyền chính trị, vì lẽ đó nữa mà Strasbourg thường kiêu kỳ mang cho mình danh xưng capitale européenne?

Tiếp tục đọc “La Krutenau”

Yêu từ cái nhìn thứ hai

“Bây giờ tôi không còn tin vào cái cụm từ ‘yêu từ cái nhìn đầu tiên’ nữa rồi.”

Câu nói này của bạn tôi hôm nay bỗng làm tôi giật mình. Ngay lập tức tôi lần lượt rà soát lại những tình yêu lớn của đời mình để xác nhận mức độ chính xác của ý kiến đó. Và quả thực, bạn tôi không hẳn là sai.

Trong những cái nhìn đầu tiên hớp hồn ấy, tôi chưa bao giờ biết đó là tình yêu. Ozu “tấn công” tôi bằng Tokyo Story, Ford “quyến rũ” tôi bằng The Searchers. Hai bộ phim bao lâu nay vẫn khiến giới mộ điệu nức nở lẽ dĩ nhiên không khỏi làm tôi xiêu lòng, thế nhưng đến nay tôi chưa một lần nào nghiêm túc xem lại chúng. Tôi thật sự say đắm trước Ozu bắt đầu từ Late Spring, còn Ford chính thức làm tôi mê mệt kể từ The Man Who Shot Liberty Valance, đều ở lần tiếp xúc sau đó. Thế rồi, những An Autumn Afternoon, Early Summer, There Was a Father, The Only Son, Late Autumn, Good Morning, Early Spring, Brothers and Sisters of the Toda Family, v.v…, những The Quiet Man, How Green Was My Valley, Fort Apache, My Darling Clementine, Young Mr. Lincoln, Two Rode Together, Steamboat Round the Bend, Donovan’s Reef, Doctor Bull, v.v… ồ ạt tới khiến cho ánh mắt đầu tiên kia trở nên thật mờ nhạt. Điều tương tự cũng xảy đến với tôi ở trường hợp của Jacques Demy trong Les Parapluies de Cherbourg hay Lưu Quang Vũ trong Tiếng Việt. Dickens, và một người nữa, có lẽ là những lần hiếm hoi chiếc đũa phép nhiệm màu có thể phe phẩy những hạt bụi tiên lên tôi; nhưng đó lại là một câu chuyện khác.

Đúng thật, tôi chẳng mấy khi yêu từ cái nhìn đầu tiên.

The Man Who Shot Liberty Valance (1962), John Ford. Ảnh: Warner Bros.
Tiếp tục đọc “Yêu từ cái nhìn thứ hai”

How Green Was My Valley — Xanh biết bao một thuở đã qua

Năm 1967, khi đã có trong tay rất nhiều tác phẩm viết nên định nghĩa sau này của môn nghệ thuật thứ bảy, Orson Welles, trong một lần được nhà phê bình người Anh Kenneth Tynan hỏi về các đạo diễn người Mỹ đương thời, đã nói:

“Stanley Kubrick và Richard Lester là những người duy nhất khiến tôi hứng thú—trừ các bậc lão làng. Ý tôi đó là John Ford, John Ford và John Ford. […] Ford ở đỉnh cao của mình cho ta cảm giác rằng bộ phim có sức sống và hơi thở trong thế giới thực, dù kịch bản có thể được viết bởi Mother Machree.”1

Welles đã chỉ tên rất chính xác một trong những đạo diễn lớn nhất của thập niên ’60 giờ đã gần như bị lãng quên trên bản đồ điện ảnh thế giới: Richard Lester. Trái ngược lại, John Ford, nhà làm phim được tất thảy những người đồng nghiệp cũng như giới hâm mộ điện ảnh kính trọng, một lần nữa khẳng định chắc nịch vị trí cao ngút của mình nhờ những lời tán dương từ Welles. Một cái tôi quá lớn như Welles, người sẵn sàng gọi Michelangelo Antonioni là “cha đẻ và người đi tiên phong” trong công cuộc khám phá “buồn tẻ” như một đề tài nghệ thuật, Federico Fellini là một đạo diễn “tỉnh lẻ”, hay cho rằng Thụy Điển của Ingmar Bergman, giống như Henry James nói về Na Uy của Ibsen, ngập “một mùi nến tôn giáo”2; Welles, người bị kinh đô điện ảnh quay lưng trong suốt sự nghiệp của mình như hoàng tử Hal đã làm với Falstaff trong tác phẩm cùng tên năm ấy của ông, dành một niềm ngưỡng mộ đặc biệt đối với nhân vật đứng đầu danh sách những con người nắm giữ kỷ lục về giải thưởng cũng như sự tung hô của Hollywood. Điều đó cho thấy rằng đây là sự nhìn nhận hết sức giá trị. Trên thực tế, Welles cũng là một trong những người đầu tiên thật sự trân trọng giá trị nghệ thuật thuần khiết nhất trong những tác phẩm của Ford, và khẳng định tầm cỡ của ông trong việc truyền cảm hứng cho sự phát triển của điện ảnh.

Tiếp tục đọc “How Green Was My Valley — Xanh biết bao một thuở đã qua”

Tháng Tư

Trong dòng những biến đổi, tôi muốn nắm bắt hết, những vươn mình thức giấc, những phai nhạt, lãng quên.

Trong dòng những chuyển động, tôi muốn ghi chép hết, những gặp gỡ, chia tay, những hội ngộ, ly biệt.

Trong dòng những bất động, tôi muốn vẽ lại hết, bầu trời đêm không một vì sao xa, phố tĩnh mịch không một ánh điện đường.

Trong dòng những lạc lối, tôi muốn đánh dấu hết, những ngã tư trước mặt hằng lưỡng lự, những giao lộ sau lưng hằng lao đao.

Trong tháng Tư của những ngày tuổi trẻ, tôi gửi lại một phần của tôi, nơi vui tươi tôi dành cho những người, trân trọng tôi dành cho những vật, tiếc nuối tôi dành cho những kỷ niệm đã chẳng còn thân thương.

Tháng Tư ấy, tôi những muốn kể lại, nhưng không phải bằng lời, cũng không phải bằng chữ, lại càng không phải bằng những láo nháo lác nhác phác thảo hay lủng củng lỉnh kỉnh ký họa.

À, thế rồi tôi nhận ra, tất cả những gì tôi cần làm chỉ là nhắm mắt lại… Tiếp tục đọc “Tháng Tư”

Đôi lời về “Mr. Smith Goes to Washington”: ‘Nước Mỹ’ của Frank Capra

Khi Smith bước xuống chuyến tàu vừa đưa anh từ quê nhà tới Washington, D.C, ngước nhìn ra bên ngoài, “bất thình lình, nó ở đó, nó sừng sững trước mắt anh qua cửa ga”. Đó là Mái vòm Điện Capitol với vị Nữ thần tượng trưng cho Tự do ở trên nóc mà trước đây anh chỉ được biết đến qua tranh ảnh, sách vở. “Lớn như thật, rực rỡ dưới ánh sáng mặt trời bên ngoài”. “Và rồi anh cứ thế cất bước tới đó”, bước lên chiếc xe buýt đang đậu ngay ngoài cửa. Có lẽ anh “chưa từng xúc động đến thế trong đời”, trên mặt hiện rõ sự hớn hở, sung sướng như một đứa trẻ vừa vớ được kẹo. Chiếc xe đưa anh qua mọi ngả đường Washington, D.C, qua tòa nhà Trụ sở Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ với dòng chữ nổi tiếng “Công lý bình đẳng theo luật pháp” (“Equal justice under law”), qua Tòa Bạch Ốc từng là nơi ở và làm việc của biết bao con người vĩ đại mà từng lời nói của họ anh đều đã nằm lòng, qua Tòa Quốc Hội nơi anh quyết định ghé vào tham quan. Chiếc Chuông Tự do ngân vang trên nền bản Tuyên ngôn Độc lập được máy quay cận cảnh ghi lại ba cụm từ bao đời nay đã ngự trị trong tiềm thức của người dân Mỹ: “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Anh tiếp tục chuyến tham quan của mình, thăm Tượng đài Washington sừng sững soi bóng xuống Hồ phản chiếu, thăm Đài tưởng niệm Iwo Jima, Đại lộ Hiến Pháp, Nghĩa trang quốc gia Arlington, … Tất cả lướt qua màn hình trên nền lá quốc kỳ Mỹ phấp phơi tung bay. Những cú cắt cảnh, chuyển cảnh mượt mà kết hợp với góc máy rộng đem lại vẻ choáng ngợp trước một Washington hoa lệ. Cuối cùng, Smith dừng chân tại Đài tưởng niệm Lincoln. Và Abraham Lincoln, “ông ấy ở đó, nhìn thẳng vào anh khi anh bước lên những bậc thang dẫn vào bên trong”. Ông “ngồi đó như thể đang đợi ai đó tới”. Phía xa xa là tấm văn bia khắc bài Diễn văn Gettysburg, nơi một cậu bé đang bập bẹ đánh vần từng câu của bài diễn văn cho một cụ già nghe.

Tại đây, Lincoln cuối cùng cũng được gặp con người mình vẫn đợi chờ sau bao năm trời, một người “cố gắng nhân rộng tư tưởng của ông”, một người “thấu hiểu công việc của ông và lao vào nó”: Ngài Smith vừa tới Washington.

Cũng chính tại đây, Frank Capra đã gạt đi được tất cả những do dự, hạ được toàn bộ quyết tâm để thực hiện nên một trong những bộ phim xuất sắc nhất lịch sử điện ảnh về đạo đức, lý tưởng, về giá trị của mỗi cá nhân, nền dân chủ và tự do.

Poster
Áp phích phim. Ảnh: IMDb

Tiếp tục đọc “Đôi lời về “Mr. Smith Goes to Washington”: ‘Nước Mỹ’ của Frank Capra”